Hai cha con cứ xuôi theo con sông hết bến này đến bến nọ, đánh bắt ở đâu ông bán ngay trên bến sông đó. Thằng Phú ngóng lên bến Đợi, ở bến Đợi có con bé Na, con bà hàng cá. Ba thường bán hàng ở đó. Thằng Phú bắt nhiều cá lòng tong bảy màu cho bé Na, bé Na cho lại thằng Phú những cây bút chì màu, thằng Phú thích mê. Cha thằng Phú không ở lâu trên bờ, cha nó bán cá không cần trả giá, ông mua đủ vật dụng cần thiết là ông đi ngay. Thằng Phú chẳng kịp chơi những trò chơi con nít với bé Na, với lại thằng Phú biết thế nào mà chơi được, quanh năm suốt tháng nó trên ghe, nhiều lúc nó quẩn chân chỉ biết đứng ở đầu ghe ngó ngơ ngó ngẩn về phía đầu bờ. Cha thằng Phú ít nói, chỉ khi cần ông mới lên tiếng. Hai cha con ít khi tâm sự nhưng thằng Phú biết rất rõ một điều mà ông chỉ giữ trong lòng rằng ông rất thương con. Hồi thằng Phú năm tuổi, bị rớt sông cha nó vớt được, ông làm đủ mọi cách cho thằng Phú tỉnh lại, nhưng mãi thằng Phú không nhúc nhích động đậy chi hết trơn, ông bắt đầu hoảng, ông khấn trời khấn đất, khấn hà bá đừng bắt con ông, rồi ông khóc, khóc nức nở, đôi mắt đỏ hoe đỏ hoét. Rồi ông nghe tiếng ho sằng sặc của thằng Phú ông biết con mình còn sống ông càng khóc dữ, khóc vì cuộc đời này ông sẽ không phải sống trong cô độc. Ông dạy thằng Phú tập bơi, dân chài lưới mà không biết bơi thì xấu hổ không biết để đâu cho hết. Nhớ lại lần chết hụt, thằng Phú ngợp sặc nước kêu cha í ới, thằng Phú tay chân đập loạn xị, cà xập cà xoạng mãi rồi cũng quen với nước. Sau thằng Phú cũng biết bơi, nhưng nó chỉ dám bơi gần bờ. Cha dạy Phú đan lưới, đan lợp, riêng khoản này thằng Phú học đâu biết đó, cha khen nó khéo tay. Cha còn khen nó vẽ đẹp, những cây bút chì màu bé Na cho tha hồ để nó vẽ, nó vẽ những gì nó thấy và nó vẽ cả những hình ảnh nó chưa bao giờ nhìn thấy dù chỉ một lần. Đầu tiên nó vẽ cái ghe của cha con nó, nó vẽ hình mấy con cá rô, cá bống nhảy đành đạch cố thoát ra khỏi mắt lưới, nó vẽ bé Na đang mút chùn chụt que kem đá hai màu có thêm trái chùm ruột, nó vẽ cha ngồi tư lự thả những vòng thuốc trắng đục vào khoảng không mênh mông, và nó vẽ mẹ, nó giấu cha để vẽ về mẹ nó, thằng Phú cũng như bao người con khác, từng nét, từng mảng màu nó vẽ mẹ nó thật đẹp, thằng Phú hiện lên đôi mắt trong rất trong, từ sâu trong đáy mắt là muôn vàn yêu thương dành hết cho con. Nó giấu cha, nó sợ cha biết không cho nó vẽ nữa.
Cha thằng Phú biết nó nhớ mẹ nhưng ông không giận mà ông thương thằng Phú nhiều hơn, thương cho con ông thiếu đi tình mẫu tử, thiếu đi bàn tay chăm sóc của người mẹ, nếu có mẹ chắc nó không thất học.Thằng Phú không có chút ấn tượng gì về mẹ, nó càng không biết tại sao cha lại đốt hết những gì liên quan đến mẹ. Ông muốn cắt đuôi quá khứ, cắt hết nhưng những mối dây giữa thằng Phú và mẹ nó.
Cái nghề suốt đời lênh đênh trên sóng nước có mấy ai mà làm nên ăn ra. Đời phiêu bạt như hai cha con thằng Phú kiếm đủ ngày ba bữa đã là may mắn chứ mong chi của nả để dành. Ăn theo con nước bữa được bữa không vậy mà cha thằng Phú vẫn cứ mãi trôi xuôi dòng bám trụ vào sông mà sống. Có lần thằng Phú bị trúng gió, ông cạo gió cho thằng nhỏ, nó đau la oai oái, đợt đó ông tốn cả bạc triệu vì ông chẳng biết ất giáp về chuyện thuốc men. Nhiều đêm ông cũng trằn trọc, nghĩ về tương lai, mà tương lai của ông chắc rồi cũng là ghe xuồng, rồi ông thở dài cam chịu,” Thôi kệ biết tới đâu hay tới đó”.
Cha thằng Phú hiểu con sông này còn hơn ông hiểu về bản thân mình. Sáu tuổi ông đã lội bì bõm trên sông với chúng bạn, bảy tuổi ông theo cha đi ghe, mà không phải đi theo để đánh lưới, ông đi rừng, những đợt rừng về có khi bằng cả mấy tháng trời đánh lưới. Tai họa ập xuống, cha ông bị gỗ đè gãy chân không còn đi rừng được nữa, ăn của rừng nước mắt chan cơm, ông thấy cha như vậy cũng thôi. Ông đánh lưới, ông đánh giỏi lắm, đi chuyến nào về cũng đầy ăm ắp, người ta bảo ông sát cá. Cũng nhờ vậy,ông tích cóp dựng lại cái nhà khang trang hơn, con gái trong vùng đến tuổi lấy chồng ai cũng mến cái hay lam hay làm, chịu thương chịu khó của người đàn ông sông nước. Nhưng mối nào ông cũng từ chối, ông lỡ thương cô nữ sinh trên trường huyện về làng ông dạy cho bọn trẻ con thất học. Lễ ăn hỏi, đám cưới gộp chung làm một, nghe đâu cũng linh đình lắm. Ông rước vợ về, ông ngày ngày đi đánh lưới, vợ ông được vào dạy ở một trường cấp hai trên thị trấn, mỗi tuần về với ông những ngày cuối tuần. Ông không thể bỏ sông mà lên ở gần vợ, và ông còn người cha già. Những ngày về thưa dần, vợ ông nói công việc bận lắm. Ông thương vợ bắt được con cá nào ngon thịt ông đều để dành nấu cháo cho vợ. Ngày vợ ông mang bầu thằng Phú, đêm nào ông cũng cần mẫn soi ếch vì ông nghe người ta nói thịt ếch tốt cho người đang thai nghén, vợ ông lại sinh con đầu lòng ông lại càng thương. Ông nói ông không có tài sản chi quý giá, ông chỉ có người vợ xinh đẹp, giỏi giang ông không lo cho vợ thì ông lo cho ai. Nhưng đùng một cái, vừa hết ở cữ vợ ông đòi đi dạy lại, ông cũng chiều. Vợ ông bỏ đi, ông thương vợ ông không tin, nhưng những lời xì xầm bóng gió ngày càng nhiều làm ông nghĩ lung lắm. Người ta kháo nhau vợ ông đi theo một người đàn ông đứng tuổi nổi tiếng giàu có nhờ trúng gỗ rừng. Ông về, ông không khóc, ông thở hắt, ông giấu nỗi đau vào lòng. Ông còn thằng Phú, từ nay chỉ thằng Phú là người thân duy nhất của ông trên bến sông đìu hiu này. Có những nỗi đau đôi khi giấu kín trong lòng lại cảm thấy nhẹ nhàng hơn, ông không muốn nhắc chuyện cũ, không muốn mình đau thêm một lần nữa, dù vết thương nay đã lành nhưng cái sẹo lớn quá, một cái sẹo đã chai sần theo năm tháng.
Thằng Phú đòi cha dạy chữ cho nó, ông cộc lốc, “Tao quên hết chữ rồi”. Là ông nói thiệt, ông muốn dạy chữ cho thằng Phú nhưng ngày xưa học ở trường làng, hôm được hôm không, chữ được chữ có. Ông học một buổi thì lại đi rừng với ông nội thằng Phú cả tháng trời mới về. Nhắc tới chuyện học hành của thằng Phú làm cho ông nghĩ lung lắm. Ngày xưa mình không biết chữ nên người ta xem thường, ông cũng nghĩ hình như có khi mình thất học nên vợ bỏ mình mà đi. Ông như bọt bèo phù du trên con sông này, nước chảy đến đâu thì bọt bèo phù du trôi xuôi đến đó, còn thằng Phú nó không có tội chi hết, rủi mai này mình có chết đi thì thằng Phú biết làm sao khi chỉ còn lại một thân một mình. Một thằng thất học lấy chi để người ta kính với trọng. Hai cha con đi khỏi làng mà thằng Phú còn biết quay lưng nhìn lần cuối chứ cha thằng Phú chắng lấy được một lần, ghe xuồng gắn với mình như máu thịt lỡ mình quay lại rồi chẳng đành thì sao.
Cha con thằng Phú bị lạc đường. Ừ, sao không lạc cho được, thành phố rộng mênh mông, nhiều đường lắm hẻm, lại không thân không thích, quanh năm với ghe xuồng ít khi lên bờ, chữ nghĩa thì mù mù đùng một cái cha con dắt díu nhau lên cái thị thành xa lạ này. Cha thằng Phú thiệt cực hết biết, xuống thuyền không xong bây giờ lại chạy lên phố, ông chạy chi xa vậy, trốn chi xa vậy, dù có xa mấy đi chăng nữa ông cũng đâu có quên được những ký ức buồn khắc sâu trong ông.
Thằng Phú cầm xấp vé số mà gật gà gật gù như người thiếu ngủ, chắc tại tối qua đi học về khuya. Cha thằng Phú mướn cái nhà nhỏ trong hẻm sâu, hai cha con sửa sang lại chút ít rồi thì che nắng che mưa củng tạm được. Cha thằng Phú đi phụ hồ, hồi đầu chưa quen tay quen chân nên ít việc, sau nhờ có sức lực, với cái tính siêng năng, cần cù dần dà ông được người ta tin dữ lắm. Thằng Phú đòi đi bán vé số phụ cha nó, cha nó nhất quyết không cho, nó làm lẫy hết mấy ngày cha nó mới đồng ý cho nó đi bán. Thằng Phú học bổ túc ở cái trường cách chỗ hai cha con đâu có chừng năm bảy cảy chi dó. Đường xa vậy mà nó chưa bỏ buổi nào, cha nó nói được học đã là tốt rồi dù là bổ túc, làm cái thằng thất học nhục lắm. Thằng Phú biết cũng vì cái sự học hành của nó mà cha phải giấu nước mắt vào trong đành đoạn bỏ xứ mà đi.
Thằng Phú gặp lại mẹ. Nói không ai tin, cha nó đi theo công trình rong ruổi khắp thành phố rồi tình cờ gặp mẹ nó, giờ là một bà chủ giàu có buôn bán đồ nội thất. Bà khác xưa nhiều quá, thiếu chút nữa ông đã không nhận ra. Gương mặt khắc khổ, đôi mắt sâu hun hút nhìn bà chỉ như một người quen cũ lâu ngày gặp lại, không một cảm xúc nào quá đáng. Cuộc gặp gỡ không được báo trước, mọi thứ như trôi tuột vào dòng thời gian đang chảy siết. ông lặng câm nhìn người đàn bà trước mặt, hình như ông quên rằng mình từng căm hận ngút trời người người đàn bà ấy, người đàn bà đã chôn vùi của ông một gia đình hạnh phúc, lấy đi một người mẹ hiền của thằng Phú.
Ông về, nói câu gọn lỏn nghe có gì đó nghẹn đắng trong lòng, “Mày về ở với má cho đỡ cực” , “Bộ cha hết thương con”. Hỏi chi cay nghiệt, dù ông với thằng Phú có là người dưng đi nữa thì ông cũng thương thằng Phú hết cỡ huống chi trên cõi đời này chỉ còn thằng Phú là người thân thích ruột rà của ông. Thằng Phú đi thiệt, đi cho bỏ ghét ông già, đi cho ổng nhớ đến đứt ruột luôn. Ừ, ông nhớ quay quắt, nhớ điên đảo thằng Phú, nhớ từ cái ngày thằng Phú nhét trộm vào túi ba nó mảnh giấy có đề “Con thương ba lắm” rồi như còn luyến tiếc nó quay lại nhìn cha với ánh mắt van xin cho nó ở lại tựa như hồi nó xa làng vậy.
Thằng Phú về ở với mẹ. Áo có đẹp hơn, đồ ăn có ngon hơn, học trường chính quy chứ không còn học bổ túc như trước mà sao thấy trong ánh mắt thằng Phú không sung sướng với những điều đó. Buồn ứa nước mắt, nó chỉ còn những bức tranh để vơi đi nỗi nhớ cha. Thằng Phú cảm thấy xa lạ với những chăm sóc, yêu thương của mẹ. Nó như lạc lõng trong chính vòng tay ôm ấp, nâng niu của tình mẫu tử mà nó cứ ngỡ nếu được gặp lại nó sẽ không bao giờ để vuột mất. Nó nhớ hắt hiu đôi bàn tay to bè, chai sần của cha, nó thương cha, và rồi nó chợt thèm một bát nước cơm thơm lành. Thằng Phú trốn khỏi nhà và cũng để lại một mẫu giấy như lần trước, “Con thương cha và thương cả mẹ nữa nhưng con muốn sống với cha, mẹ à”. Ánh nắng chiều héo hắt rọi những tia sáng cuối ngày xuống thành phố mênh mông, chiếc bóng trải dài trên mặt đường, đôi chân nhanh nhẹn, thoăn thoắt đi về phía có ngọn lửa ấm áp đang đợi chờ.
Phong Khê.